Trong đông y, Hải đồng bì có vị đắng, cay, tính ôn. Có tác dụng khư phong, thông lạc, hóa thấp, sát trùng. Dùng để trị chứng thắt lưng đùi do phong thấp, nhức mỏi chân tay...
Hải đồng bì trong đông y còn được gọi là thích đồng bì, là lọa cây to cao tới 10m, vỏ xanh rồi nâu, có nhiều gai ngắn. Lá mọc so le, có 3 lá chét hình tam giác. Bộ phận thường được dùng làm thuốc là vỏ và lá. Để làm thuốc ta nên chọn vỏ cây to dầy, phơi khô có mầu nâu ,không để lâu mốc, mất mùi là tốt.
Trong y học cổ truyền, hải đồng bì có vị đắng, tính ôn, có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương, làm an thần, gây ngủ, hạ nhiệt, hạ huyết áp, co bóp các cơ. Dùng để trị thắt lưng đùi do phong thấp, nhức mỏi xương khớp.
Vỏ cây vông nem là vị thuốc của hải đồng bì
Một số bài thuốc từ hải hồng bì:
Đau nhức xương khớp:
Vỏ hải đồng bì, cỏ chân chim, kê huyết đằng, phòng kỷ, ý dĩ sao, ngưu tất mỗi vị 15g. Sắc uống.
Trị chân tay co rút:
Hải đồng bì, đương quy, mẫu đơn bì, thục địa, ngưu tất, mỗi thứ 30g, sơn thù du, bổ cốt chỉ, mỗi thứ 15g. Tán bột, mỗi lần dùng 3g, thêm củ hành trắng và 2 chén nước. Sắc còn 1 bát, bỏ bã, uống nóng trước khi ăn
Chữa đau nhức răng:
Hải đồng bì sắc lấy nước ngậm (Thánh Huệ Phương).
Chữa kinh nguyệt không đều:
Hoa hải đồng bì 30g sắc uống (Trung Quốc Dược học đại từ điển).
Sau khi sinh máu xấu , mờ mắt:
Vỏ cây hải đồng bì già, lá mần tưới, vỏ màn chầu, ngưu tất, mỗi vị 10-15g, sắc uống.
Chữa rết hoặc rắn cắn: hải đồng bì tươi giả, đắp lên vết cắn (Trung Quốc Dược học đại từ điển).
Kiêng kỵ: người không có phong hàn, thấp tà thì cấm dùng.
Lương y: Minh Phúc