Theo y dược cổ truyền, quả sim có vị ngọt, chát, tính bình có tác dụng hành huyết, chỉ huyết, bổ huyết, hoạt lạc.

 Ở Việt Nam, sim là loài cây quen thuộc ở vùng đồi trọc, khắp các tỉnh vùng trung du, núi thấp, đồng bằng.

Các bộ phận dùng làm thuốc: lá, quả và rễ (Folium, Fructus et Radix Rhodomyrti Tomentosae).

Lá thu hái vào mùa hè, dùng tươi hay phơi khô.

Quả chín hái vào mùa thu, người ta thu hái về rửa sạch, để ráo rồi đồ chín, phơi khô, bảo quản để sử dụng.

Cây Sim

Những bài thuốc từ lá sim:
Trong thân và lá của cây sim có chứa nhiều chất mà khi kết hợp với dịch từ hoa và quả sim được dùng để chữa bệnh viêm gan rất hiệu quả. Lá sim có chứa một loại chất kháng sinh có khả năng ngăn chặn vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm, làm cân bằng hệ tiêu hóa.
Nếu trong các bạn ai đã từng thử ăn lá sim sẽ thấy chúng có vị ngọt chát. Chính vì vậy lá sim có tác dụng cầm máu, có thể dùng làm thuốc giảm đau, thanh nhiệt và lấy mủ. Lá sim thường được dùng để điều trị bệnh nhức đầu, kiết lỵ, chảy máu do chấn thương ngoài da, lở loét và một số bệnh khác,… để điều trị các bệnh trên bạn có thể dùng lá khô hoặc lá tươi sắc uống hàng ngày thay nước.
Ngoài ra lá sim còn được bào chế thành dạng cao: dùng 1kg lá sim rửa sạch rồi thái nhỏ nấu với 20 lít nước, nấu trong nhiều lần cho đến khi chúng sánh cô lại thành dạng keo đặc. Dùng bôi vào vết thương do bị bỏng sẽ giúp giảm bỏng rát, chống lở loét và giúp vết thương mau se miệng. Nên dùng nhiều lần trong ngày, sử dụng liên tục trong thời gian dài để có được kết quả tốt nhất.

Bài thuốc từ quả sim

 

Quả sim


Trong quả sim có chứa rất nhiều các dưỡng chất tốt cho cơ thể như: chất béo, chất bột, đường, protein, các acid hữu cơ và một số các phức hợp chất khác,…Có thể xem quả sim như một vị thuốc quý dùng để chống lão hóa, chống oxy hóa và bảo vệ da. Quả sim chín có vị ngọt, chát. Dùng 10 – 15g quả sim khô, sắc lấy nước uống hàng ngày tốt cho những người bị bị rối loạn đường huyết, bị suy nhược cơ thể, thiếu máu và giúp những người mới ốm dậy mau bình phục.

  • Dùng cho sản phụ bị thiếu máu, bệnh nhân vừa mới ốm dậy: sắc với 500ml nước 15 – 20g quả sim khô lấy 200ml, uống 2 lần/ngày khi đói.
  •  Giúp bổ máu, bổ thận, phục hồi cơ thể: kết hợp các vị thuốc sau: 12g quả sim khô, 16g đỗ đen đã sao thơm, 12g củ sâm đại hành sao, một nắm lá dâu non sao. Sắc với 500ml nước lấy 200ml dùng 2 – 3 lần/ ngày khi đói.
  • Dùng cho phụ nữ bị ra máu nhiều, nôn ra máu: dùng quả sim khô sao cháy đen rồi nghiền thành bột mịn. mỗi lần dùng khoảng 12 – 15g sắc với nước rồi để nguội mới uống. Bên cạnh đó, bột từ quả sim còn được dùng để bôi các vết thương ngoài da rất mau lành.
  • Điều trị lòi dom: dùng 10 – 20g quả sim khô nấu với dạ dày lợn, ăn hàng ngày với cơm.
  • Chữa kiết lỵ, đau bụng, đại tiện nhiều lần, phân có lẫn máu: dùng quả sim tươi từ 30 – 50g sắc uống với nước có thể thêm vào một ít mật ong cho dễ uống

Các bài thuốc từ rễ sim

Rễ sim có vị ngọt, hơi chua, tính bình, tác dụng khu phong, trừ thấp, hoạt lạc, thu liễm, cầm máu, chỉ tả. Thường được dùng chữa phong thấp, đau nhức các khớp xương, đau lưng, viêm gan truyền nhiễm, lỵ, viêm dạ dày - ruột cấp tính, ăn uống không tiêu, băng huyết, lòi dom (thoát giang).

Ngày dùng 15 - 30g khô, sắc uống.

Dùng ngoài, sao cháy tồn tính, tán thành bột mịn, trộn với dầu mè đắp chữa bỏng.

- Viêm gan truyền nhiễm cấp tính:

Rễ sim khô 30g, nấu với 500ml nước, sắc còn 200ml, chia 2 lần uống sau bữa ăn. Mỗi liệu trình 20 ngày.

Nếu vàng da nặng, thêm các dược liệu: cốt khí củ, nhân trần, bạch hoa xà thiệt thảo mỗi thứ 15g, kê cốt thảo 30g, nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống sau bữa ăn.

- Phong thấp, các khớp xương đau nhức:rễ sim khô 60g, sắc lấy nước, hòa với ít rượu để uống.

- Đau lưng, phong thấp, nhức mỏi các khớp: rễ sim 30g, rễ cỏ xước 10g, lá lốt 10g, thổ phục linh 12g, ngũ gia bì (hoặc thiên niên kiện) 12g, rễ tranh 10g. Nấu với 750 ml, sắc còn 200 ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

Lá sim, búp sim và rễ sim có chứa nhiều chất chát nên những người bị táo bón do nhiệt không nên dùng để uống.

Ngoài cây sim nói trên, còn có một loại sim có tên là sim rừng (sim ba gân, tiểu sim) mọc trong các rừng thứ sinh và trên các đồi hoang vùng trung du. Sim rừng có tên khoa học Rhodamnia dumetorum (Poir) Mern. Et Perry. Quả sim rừng ăn được, các bộ phận dùng làm thuốc là quả, lá, rễ. Tác dụng cũng như loài sim nói trên.

Cần lưu ý một điều là, cây sim ngoài là một dược liệu quý, nó còn có tác dụng giữ đất, nước, chống xói mòn, chống trôi màu, là thảm thực vật quan trọng giữ nguồn nước cho vùng đất cao. Để có một cây sim trưởng thành phải mất trên mười năm, cho nên tốt nhất là khai thác trái sim để dùng làm thực phẩm và làm thuốc.

Chỉ nên dùng rễ sim làm thuốc khi thật sự cần thiết (không có thuốc nào khác). Sự tận diệt cây sim để lấy rễ là một việc làm cần báo động và phải kịp thời ngăn chặn.

Thuốc từ nụ sim

Nụ sim có nhiều tanin, acid nicotinic, flavonic, riboflavin…

Theo y dược cổ truyên, sim có vị ngọt, chát, tính bình, tác dụng làm cầm máu, trừ nhiệt độc, tiêu mủ, chỉ tả. Dùng chữa tiêu chảy, kiết lỵ.

Ngày dùng 8 - 10g, sắc uống.

Dùng ngoài, nấu nước cô đặc, dùng rửa vết thương, vết loét.

- Chữa tiêu chảy do lạnh:

Nụ sim 8 - 10g, gừng tươi (nướng cháy sém vỏ ngoài) 8 - 10g, củ riềng 10 - 12g, củ sả 10 - 12g. Tất cả sao chín, nấu với 500 ml nước, sắc còn 200 ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

- Chữa tiêu chảy do nhiệt:

Nụ sim 8 - 10g, búp chè 12 - 16g. Hai thứ rửa sạch, nấu với 500ml nước, sắc còn 200ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

- Chữa kiết lỵ:

Nụ sim 20-30g, nấu với 500ml nước, sắc còn 200ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.