Theo y học cổ truyền, hoắc hương có vị cay, mùi thơm hắc, tính hơi ấm, có tác dụng làm mạnh dạ dày - ruột, giúp sự tiêu hóa, hành khí, giảm đau.

Hoắc hương là cây vị thuốc được biết đến trong những bài thuốc chữa cảm mạo, nhức đầu , đau mình sổ mũi, đau bụng, ăn uống không tiêu, và tinh dầu Hoắc hương là hương liệu quý.Hoắc hương có tên khoa học là Pogostemon cablin Benth., Họ Hoa môi – Lamiaceae hay dân gian còn gọi cây hoắc hương là Quảng hoắc hương, Thổ hoắc hương, là cây cỏ sống lâu năm, thân vuông màu nâu tím. Thân lá có lông, lá mọc đối, mép khía răng to. Hoa màu hồng tím nhạt, mọc  thành bông ở kẽ lá hay đầu cành. Cây Hoắc hương được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất tại Kim Sơn – Ninh Bình, Hưng Yên. Hoắc hương được trồng chủ yếu lấy lá và cành làm thuốc.

Hoắc hương có tác dụng chữa trị cảm cúm, nhức đầu, mệt mỏi 

Một số bài thuốc theo kinh nghiệm dân gian.

Bài 1: Chữa ăn không tiêu, sôi bụng: Hoắc hương, thạch xương bồ, hoa đại 1 mỗi vị 12g, vỏ bưởi đào (sao cháy) 6g. Tất cả tán thành bột trộn đều. Mỗi lần uống 2g với nước chè nóng trước bữa ăn nửa giờ. Ngày uống 3 lần, dùng liền 3 ngày.

Bài 2: Chữa tiêu chảy do ăn đồ sống lạnh: Hoắc hương 12g, cát căn 12g; nụ sim, đậu ván trắng; sa nhân, mộc hương mỗi vị 8g; cam thảo 4g; gừng nướng 3 lát. Tất cả sắc với 500ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng liền 3 ngày.

Bài 3: Chữa cảm nắng, ho, người đau nhức: Hoắc hương, tía tô, hương nhu mỗi thứ 1 nắm nhỏ, lá chanh, cam thảo đất mỗi vị 8g, chua me đất 10g, gừng 3 lát. Tất cả sắc với 700ml nước còn 200ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng liền 5 ngày.

Bài 4: Chữa cảm cúm, nhức đầu, mệt mỏi: Hoắc hương 6 - 12g sắc với 500ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng liền 3 ngày.  Có thể phối hợp với các vị thuốc khác như lá chanh, gừng, chua me đất, cam thảo đất sắc uống như trên.

Bài 5: Chữa hôi miệng: Hoắc hương và bạc hà - mỗi thứ 5g,  hãm nước sôi, súc miệng nhiều lần  trong ngày hoặc có thể ngậm ít một rồi nuốt.

Kiêng kỵ: Người cơ thể gầy yếu, thiếu máu, tăng huyết áp, ngủ kém, đại tiện khó, tiểu tiện ít và vàng đỏ, không nên dùng.

Lương y Hữu Đức