Cây nghệ vàng có tên khoa học là curcuma longa thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Từ lâu củ nghệ đã được dùng làm thuốc chữa bệnh và là 1 trong những vị thuốc quý nhưng lại rẻ tiền và dễ kiếm. Ngoài các thành phần hóa học có ích đã được chứng minh, trong Đông y còn dùng nghệ vàng theo tính, vị, quy kinh của từng bộ phận dùng.
Cây nghệ vàng có tên khoa học là curcuma longa thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Từ lâu củ nghệ đã được dùng làm thuốc chữa bệnh và là 1 trong những vị thuốc quý nhưng lại rẻ tiền và dễ kiếm. Ngoài các thành phần hóa học có ích đã được chứng minh, trong Đông y còn dùng nghệ vàng theo tính, vị, quy kinh của từng bộ phận dùng.
1. Thành phần hóa học chính và 1 số thực nghiệm của y học hiện đại
- Thành phần hóa học chính: Các thành phần hóa học quan trọng nhất của nghệ vàng là một nhóm các hợp chất được là curcuminoid. Chất được nghiên cứu nhiều nhất là curcumin, tạo thành 3.14% (theo khối lượng trung bình) bột nghệ. Ngoài ra, còn có các loại tinh dầu như turmerone, atlantone, zingiberene. Một số thành phần khác: các loại đường, protein, nhựa. Củ nghệ chứa khoảng 5% tinh dầu và khoảng 5% curcumin.
- Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
+Chất Curcumin có tác dụng lợi mật ( gây co bóp túi mật, chất curcumen có tác dụng giảm cholesterol trong máu).
+Tinh dầu dù pha loãng cũng có tác dụng kháng sinh diệt nấm và vi khuẩn.
+Nghệ vàng có tác dụng giảm mỡ máu và chống đau thắt ngực, ức chế ngưng tập tiểu cầu. Thuốc có tác dụng tiêu viêm như cocticoid đối với mô hình gây phù chân trên chuột.
+Củ nghệ sắc nước tiêm vào ổ bụng cho chuột có thai và cho thỏ có thai đều gây sẩy thai.
2. Khương hoàng và uất kim: 2 vị thuốc từ cây nghệ vàng
Nghệ vàng-vị thuốc quý của Đông y
Khương hoàng là củ nghệ vàng còn uất kim là rễ củ nghệ vàng. Đều được dùng làm thuốc Đông y chữa bệnh.
Khương hoàng và uất kim đều là những vị thuốc phá huyết, hành khí, chỉ thống. Khương hoàng có tính ôn, cay, thơm, ráo, phá ứ mạnh, bên trong vào can, tỳ; bên ngoài thông đạt cả chi thể, hoạt huyết thông lạc tán ứ chỉ thống. Nó là yếu phẩm để chữa các bệnh: huyết ứ ở can tỳ, khí huyết ứ trệ toàn thân gây đau nhức.
Uất kim tính hàn, hành khí cũng tốt, sở trường là sơ lợi can đởm, chữa các chứng can đởm ứ trệ, đàm bế ở tâm.
3. Chủ trị khác nhau
- Khương hoàng trị hung hiếp trướng thống, kinh bế. Uất kim chữa hoàng đản (vàng da).
+Khương hoàng hành khí, trục ứ, chỉ thống dùng để chữa khí huyết ứ trở ở bụng, hiếp trướng mãn, thống, bế kinh.
Chứng trị chuẩn thằng: Khương hoàng tán (khương hoàng, bạch thươc, diên hồ sách, đan bì, đương quy, nga truật, hồng hoa, xuyên khung) chữa phụ nhân kinh bế.
+ Uất kim hành khí hoạt huyết, chữa hung hiếp thống, kinh bế, lại còn có sở trường thông lợi can đởm, thích hợp chữa các bệnh can đởm thấp nhiệt sinh bệnh hoàng đản.
Thánh tễ tổng luận: Uất kim tán (uất kim, ngưu đởm, xạ hương) trị cốc thư môi, mồm vàng, phúc trướng khí cấp.
- Khương hoàng chủ trị phong thấp tý thống. Uất kim chủ trị bệnh thần hồn, điên giản.
+ Khương hoàng cay, ôn, táo, mạnh mẽ, thông kinh lạc, hành khí huyết, chỉ thống chữa các chứng tý.
Xích thủy huyền châu: Bài Khương hoàng tán (Khương hoàng, khương hoạt, bạch truật, cam thảo) trị tý, bối thống, chẳng cứ gì phong hay đàm.
+Uất ki thanh tâm khai cùng cốc đàm (đàm ở những nơi hang sâu, hiểm hóc) cho nên chữa được các bệnh: đàm hỏa nhiễu tâm, điên giản.
Bản sự phương: Bạch kim hoàn (uất kim, bạch phàn) trị chứng điên cuồng do đàm uất sinh ra, đàm mê tâm khiếu.
- Khương hoàng củ trị vị thống, nha thống. Uất kim chữa thổ, nục, niệu huyết (nôn ra máu, chảy máu cam, tiểu tiện ra máu).
+Khương hoàng hành khí hoạt huyết, chỉ thống mạnh, chữa các chứng đau do khí huyết tắc trở như vị thống, phúc thống, nha thống.
Bách nhất tiễn phương: Khương hoàng tán (khương hoàng, tế tân, bạch chỉ) các vị bằng nhau, tán nhỏ. Cô sát 2,3 lần, rồi lấy nước muối súc miệng. Trị đau nhức răng không chịu được.
+Uất kim lương huyết, hành ứ, chữa các chứng thất huyết như: thổ huyết, nục huyết, niệu huyết.
Kinh nghiệm phương: trị chứng đái máu. Uất kim 1 lạng giã nát, hành 1 nắm cùng hòa vào nước sắc uống.
Theo Bác sỹ Nguyễn Thùy Ngân (Đông y Thọ Xuân Đường)