Theo Đông y, ngọc trúc vị ngọt, tính hơi hàn; vào phế, vị. Có tác dụng tư âm nhuận phế, sinh tân dưỡng vị, trừ phiền chỉ khát.
Ngọc trúc có các thành phần chủ yếu là chất conballamarin, convallarin, quercitol, vitamin A. Theo sách Sinh dược học của Từ Quốc Chân (Bắc Kinh - Trung Quốc, 1958), ngọc trúc có glucozid cường tim và chất nhầy. Sách Trung dược ứng dụng lâm sàng của Trung y Học viện biên soạn năm 1975 cho biết ngoài chất glucozid cường tim, ngọc trúc còn có acid celandine (C7H4O6), alkaloit, vitamin A, vitamin PP và chất nhầy.
Cây ngọc trúc
Theo đông y, ngọc trúc có tác dụng tư âm nhuận phế, sinh tân dưỡng vị nên chủ trị được vị âm hư, âm hư ngoại cảm, chứng tiêu khát, chứng ho lao phế táo. Với các chứng bất túc, da mặt đen sạm, dùng món thuốc ngọc trúc lâu trở nên tươi nhuận, trúng phong bạo nhiệt (theo sách Bản kinh). Theo Bản thảo cương mục, ngọc trúc còn có thể dùng thay sâm kỳ, thuốc vừa không hàn, không táo lại rất công hiệu.
Các nghiên cứu hiện đại còn cho thấy vị ngọc trúc có tác dụng bảo vệ nhất định đối với trường hợp cơ tim bị thiếu máu, đồng thời phòng ngừa tăng cao triglyceride và làm giảm lipid máu, giúp phòng chống xơ cứng động mạch. Bởi vậy, trên lâm sàng, ngọc trúc đã được bào chế thành thuốc bổ dùng trong phòng ngừa bệnh tim mạch rất tốt.
Một số bài thuốc từ cây ngọc trúc:
Tư âm nhuận phế:
Trị các chứng âm hư nội nhiệt, hoặc bệnh nhiệt phạm đến phần âm, sốt ho khan, miệng khô, đau họng.
Bài 1: ngọc trúc 12g, hành sống 3 cây, cát cánh 6g, bạch vị 4g, đậu xị 16g, bạc hà 6g, chích thảo 3g, hồng táo 2 quả. Sắc uống. Trị âm hư, cảm mạo.
Bài 2: Thang ngọc trúc mạch môn đông: ngọc trúc 16g, sa sâm 12g, mạch môn đông 12g, cam thảo 8g. Sắc uống. Trị chứng phổi và dạ dày khô nóng phạm đến phần âm, họng khô, miệng khát.
Sinh tân dưỡng vị: Trị chứng phế vị táo nhiệt (phổi và dạ dày khô nóng), tân dịch khô, miệng khát, dạ dày rất nóng, ăn nhiều chóng đói. Dùng Thang ích vị: sa sâm 16g, sinh địa 20g, ngọc trúc 12g, mạch đông 12g. Sắc uống. Trị sốt cao cuối kỳ còn sốt lai rai, họng khô, miệng khát.
Nhuận phế chỉ khái:
Trị chứng phổi khô nóng sinh ho, họng khô, đờm đặc không khạc ra được.
Bài 1: Ngọc trúc 20g, sa sâm 8g, ý dĩ nhân 16g. Sắc uống. Trị ho lao, ho khan, đờm ít.
Bài 2: Thang sa sâm mạch đông: sa sâm 12g, mạch môn 12g, ngọc trúc12g, thiên hoa phấn 12g, tang diệp 12g, cam thảo 4g. Sắc uống. Trị chứng phế vị táo nhiệt, ho khan ít đờm, họng khô, miệng khát. Nếu trong người nóng quá thì thêm địa cốt bì 12g.
Hỗ trợ tim mạch
Bài 1: Ngọc trúc 12g, đương quy 12g, tần cửu 12g, cam thảo 12g. Sắc uống liền trong 1 tuần. Trị thấp tim.
Bài 2: Ngọc trúc 12g, mạch môn 12g, bách hợp 12g, thạch hộc 12g. Sắc uống liền trong 1 tuần. Phòng nhiễm bệnh bạch hầu và viêm cơ tim.
Bài 3: Cao sâm trúc: Đảng sâm 12g, ngọc trúc 20g. Sắc uống. Phòng và điều trị bệnh đau do co thắt mạch vành.