Y học cổ truyền gọi sỏi tiết niệu là thạch lâm, sa lâm (sỏi nhỏ gọi là sa lâm, sỏi to gọi là thạch lâm). Nguyên nhân chủ yếu là do chứng thấp nhiệt làm nước tiểu bị ứ đọng lại thành sỏi.

Ở Việt Nam, bệnh sỏi đường tiết niệu chiếm một tỷ lệ đáng kể, hay gặp ở độ tuổi trung niên 30 - 35 tuổi. Chế độ ăn uống không hợp lý, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, điều kiện sinh sống ở vùng khô, nhiệt đới... - là những yếu tố thuận lợi để tạo thành sỏi.

Sỏi niệu gồm: sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi niệu quản, sỏi niệu đạo. Với sỏi thận - thường là do rối loạn chuyển hóa, hoặc do thận bị tổn thương gây nên. Sỏi thận thường gặp nhất là sỏi can-xi (oxalat can-xi và phosphat can-xi) hoặc sỏi axit uric, sỏi cystin... Sỏi bàng quang - cũng giống như sỏi thận, nhưng có điểm khác là sỏi bàng quang thường gặp ở nam giới và có liên quan tới việc ứ đọng nước tiểu (bí đái). Sỏi niệu quản - thường do sỏi thận rơi xuống (có tới 80% trường hợp), số còn lại hình thành do niệu quản dị dạng. Sỏi niệu đạo - thường là do sỏi ở trên chạy xuống rồi dừng ở niệu đạo, hay gặp ở nam giới.

Sỏi đường tiết niệu thường gây đau đột ngột, đau quặn từng cơn vùng thận, đau lan xuống dưới bộ phận sinh dục, thường tiểu ra máu, tiểu dắt, tiểu buốt.

Sỏi tiết niệu

Thể thận âm hư: Nguyên nhân do sỏi lâu ngày tích lại, thấp nhiệt trở trệ làm hao tổn chính khí dẫn đến thận âm hư suy, âm hư hỏa vượng, hư hỏa bức huyết vong hành gây tiểu tiện ra máu, bụng dưới đầy trướng, lưng gối mềm yếu, đầu váng, tai ù, triều nhiệt, ra mồ hôi trộm, chất lưỡi đỏ, rêu ít, mạch tế sác. Phép chữa là tư âm giáng hỏa, thông lâm bài thạch. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Thạch vĩ tán gia vị: thạch vĩ 8g, xa tiền tử 12g, hoạt thạch 12g, cam thảo 4g, cù mạch 8g, đông quỳ tử 8g, kim tiền thảo 30g, kê nội kim 10g, xuyên sơn giáp 10g, vương bất lưu hành 15g, sinh địa 15g, huyền sâm 20g, mạch môn 15g, miết giáp 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: Kim tiền thảo 60g, kê nội kim 10g, hải kim sa 15g, hồ đào nhục 15g, thạch vĩ 15g, cù mạch 15g, biển súc 15g, xa tiền tử 10g, hoạt thạch 15g, sinh địa 15g, thiên môn 10g, ngưu tất 10g, mộc thông 5g, cam thảo 5g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 30 ngày. Công dụng: tư thận thanh nhiệt, thẩm thấp lợi niệu, thông lâm hóa kết.

Thể thận dương hư: Nguyên nhân do sỏi lâu ngày tích lại, thấp nhiệt trở trệ làm hao tổn chính khí dẫn đến thận dương hư. Người bệnh biểu hiện đau lưng âm ỉ không chịu nổi, hoạt động bị hạn chế, gối mỏi vô lực, mạch tế nhược. Phép chữa là ôn thận, hành thủy, nhuyễn kiên. Dùng một trong các bài thuốc sau:

Bài 1: tơ hồng sao vàng 30g, thổ phục linh 20g, củ mài sao vàng 30g, tỳ giải 30g, mã đề thảo 16g, hạt sen sao vàng 20g. Sắc với 1 lít nước, 2 lần, cô còn 500ml, chia uống 3 lần lúc đói. Uống dài ngày mới có kết quả.

Bài 2: Thạch vĩ tán gia vị: thạch vĩ 8g, xa tiền tử 12g, hoạt thạch 12g, cam thảo 4g, cù mạch 8g, đông quỳ tử 8g, kim tiền thảo 30g, kê nội kim 10g, xuyên sơn giáp 10g, vương bất lưu hành 15g, tục đoạn 15g, đỗ trọng 10g, tang ký sinh 15g, hồ đào nhục 15g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 20 ngày. Công dụng: chữa chứng thận dương hư, lưng đau âm ỉ, gối mỏi vô lực, mạch tế nhược.

Thể thận khí bất túc: Do có sỏi lâu ngày chữa không khỏi làm thấp nhiệt tổn thương chính khí. Hoặc do tiên thiên bất túc, do tuổi già hoặc lao lực quá độ dẫn đến thận khí hư suy không khí hóa được bàng quang gây ra: tiểu ít, tiểu rắt, đi nhiều lần không thông, lưng gối mềm yếu, lưng lúc đau lúc không, bụng dưới đầy trướng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch vô lực. Phép chữa là bổ thận, ích khí, thông lâm bài thạch. Dùng bài Tế sinh thận khí hoàn gia giảm: thục địa 16g, sơn thù 8g, bạch linh 8g, đơn bì 8g, trạch tả 8g, phụ tử chế 4g, quế chi 4g, ngưu tất 12g, xa tiền tử 12g. Sắc uống ngày 1 thang, uống ấm

Lương y: Thảo Nguyên