Trong y dược cổ truyền, lá hồng bì có vị đắng cay có tác dụng hạ nhiệt, làm long đờm, thường dùng để trị cảm mạo, nhiễm lạnh hạ sốt.

Hồng bì còn có tên khác là hoàng bì, quất hồng bì. Là loại cây có lá kép mọc so le, hình trái xoan. Hoa trắng mọc thành chuỳ thưa ở ngọn. Quả hình cầu, khi chín có màu vàng, nâu, có 1 - 2 ngăn, chứa một hạt to; thịt quả ngọt thơm. Hồng bì là cây mọc hoang và được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta. Rễ, lá, quả, được sử dụng để làm thuốc. 

Theo y dược cổ truyền, lá hồng bì có vị đắng và cay, tính bình; có tác dụng hạ nhiệt, làm long đờm; thường dùng trị cảm mạo, nhiễm lạnh, hạ sốt. Rễ và hạt có vị đắng và cay tính hơi ấm; có tác dụng giảm đau, lợi tiêu hóa, tiêu phù; thường dùng trị đau dạ dày, đau thượng vị, đau bụng kinh, tiêu hóa kém; quả có vị ngọt và chua, tính hơi ấm; có tác dụng chữa ho, long đờm kích thích tiêu hoá, chữa nôn mửa,… 

Cây và hạt hồng bì có tác dụng giảm đau, kích thích tiêu hóa.

Một số bài thuốc thường được sử dụng trong y dược cổ truyền từ hồng bì

Giải cảm, hạ sốt:

  • Lá quất hồng bì tươi 30g, rửa sạch, phơi khô, sắc uống cho ra mồ hôi.

Giảm đau do viêm họng: 

  • Quả quất hồng bì 2 - 3 quả ngậm với vài hạt muối, ngậm 3 - 4 lần trong ngày sẽ giúp làm dịu họng, giảm đau rát và giảm ho do viêm họng.

Chữa ho: 

  • Quả hồng bì tươi 4 - 5 quả, hấp với một chút đường phèn cho trẻ ăn ngày 3 lần sáng, trưa, tối có tác dụng kích thích hệ hô hấp, giúp long đờm, giảm ho ở trẻ hoặc ho do cảm rất tốt. Trong trường hợp ho gà: Dùng quả hồng bì, vỏ rễ dâu, cam thảo, mỗi thứ 10g, sắc nước uống trong ngày. Dùng 5 - 7 ngày.

Giảm đau dạ dày:

  •  Dùng hạt hồng bì, phơi hay sấy khô, sao thơm, tán mịn ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 6 - 10g; chiêu bằng nước hoặc rượu nhạt.