Theo đông y, cây điền thất có vị ngọt đắng, tính mát có tác dụng khu phong, trừ thấp, hoạt huyết thông kinh, giảm đau, lợi tiểu

Cây điền thất còn có tên gọi là hổ trượng căn. Là loại cây nhỏ, sống lâu năm, thân mọc thẳng, cao từ 1-2 m. Lá mọc so le có cuống ngắn. Phiến lá có hình trứng rộng, đầu trên hơi nhọn, phía cuống hơi phẳng hoặc hơi hẹp lại, mặt trên mầu xanh đậm. Hoa mọc thành trùm, ở kẽ lá có rất nhiều hoa nhỏ, cánh hoa mầu trắng. Cây mọc hoang rất nhiều ở vùng núi, được trồng bằng củ và rất dễ mọc, được thu hái quanh năm nhưng tốt nhất là vào tháng 8-9 hoặc tháng 2-3. Bộ phận thường dùng để làm thuốc là củ, rễ.

Theo đông y, cây điền thất có vị ngọt đắng, tính mát có tác dụng khu phong, trừ thấp, hoạt huyết thông kinh. Dùng để chữa trị  chứng đau nhức gân xương khớp, hỗ trợ điều trị viêm gan A, chữa vết thương bầm tím do ngã...

Cây điền thất

Cây điền thất

Một số bài thuốc thường dùng từ cây điền thất:

Chữa chứng đau nhức gân xương khớp do thời tiết thay đổi:

Rễ điền thất 20gam, rễ tầm soọng 20gam, rễ cỏ xước 20gam, lá lốt 20gam, cam thảo dây 20gam, dây đau xương 20gam. Đổ 500ml nước sắc còn 200ml, chia làm 2 lần uống trong ngày. Dùng trong vòng 3 tuần.

Hỗ trợ điều trị viêm gan A:

Rễ điền thất 15gam, chút chít 15gam, lá móng 20gam, sắc uống ngày 1 thang chia làm 3 lần. Đổ 500ml nước sắc còn 200ml, chia làm 2 lần uống trong ngày. Dùng trong vòng 4 tuần.

Chữa vết thương bầm tím do ngã:

Củ điền thất 20gam, lá móng 30gam, sắc với 300ml nước còn 150ml chia làm 2 lần uống trong ngày, mỗi lần uống hòa thêm 20ml rượu.

Lương y Hữu Đức​