Gừng (Zingiber officinale Roscoe) là một trong những cây thuốc quen thuộc và lâu đời nhất của người Việt, hiện diện từ gian bếp cho tới tủ thuốc gia đình. Thân rễ thơm cay, tính ấm của gừng khiến nó trở thành vị thuốc chủ lực trong các chứng cảm lạnh, rối loạn tiêu hóa và nhiều bệnh do hàn khí xâm nhập. Đến nay, cả y học cổ truyền lẫn nghiên cứu hiện đại đều khẳng định giá trị dược lý phong phú của loài cây mộc mạc này.

Tổng quan
Tên gọi khác: Gừng thuốc, sinh khương
Tên khoa học: Zingiber officinale Roscoe
Họ thực vật: Zingiberaceae – Họ Gừng
Đặc điểm thực vật
Gừng là cây thân thảo lâu năm, sống nhờ hệ thân rễ bò ngang và phân nhánh mạnh. Thân khí sinh thực chất rất ngắn, phần trên mặt đất chủ yếu là giả thân hình thành từ nhiều bẹ lá ôm khít nhau. Lá mọc so le, dạng mác hẹp, dài 15–30 cm, phiến mỏng nhưng dai, mặt trên xanh đậm, mặt dưới nhạt hơn, gân giữa nổi rõ. Cụm hoa thường mọc từ thân rễ, hình nón ngắn, các lá bắc xếp lợp, màu xanh nhạt đôi khi pha đỏ; hoa nhỏ, trắng hoặc vàng nhạt, có môi tím nhẹ. Thân rễ – bộ phận được sử dụng làm thuốc – có vỏ mỏng, màu vàng nhạt, ruột vàng tươi, mùi thơm đặc trưng và chứa nhiều tinh dầu.
Bộ phận dùng: Bộ phận dùng chính của gừng là thân rễ. Thân rễ thu hái quanh năm, thường lấy khi cây từ 8–10 tháng tuổi. Gừng tươi gọi là sinh khương, có mùi thơm mạnh, vị cay nồng, thiên về tác dụng phát tán phong hàn và chỉ nôn; khi phơi hoặc sấy khô thành can khương, dược tính chuyển sang ấm hơn, chủ yếu ôn trung, hồi dương và cầm tiêu chảy do hàn lạnh. Ngoài ra lá, hoa cũng được dùng trong ẩm thực.
Phân bố, sinh thái
Gừng có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á, hiện được trồng rộng rãi khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Ở Việt Nam, gừng được canh tác phổ biến từ đồng bằng đến miền núi, đặc biệt tại Trung Bộ, Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc, nơi điều kiện khí hậu ẩm và nhiệt độ ổn định thuận lợi cho sự phát triển của thân rễ.
Về sinh thái, gừng ưa sáng hoặc bóng nhẹ, thích hợp trên các loại đất tơi xốp, giàu mùn và thoát nước tốt. Cây sinh trưởng mạnh trong điều kiện nhiệt độ 20–30°C, lượng mưa cao và phân bố đều trong năm. Gừng không chịu úng; khi đất giữ nước lâu, thân rễ dễ bị thối. Cây thường được trồng trên nương rẫy, vườn nhà hoặc xen canh dưới tán cây thấp, vừa giúp giữ ẩm vừa hạn chế sâu bệnh.
Công dụng
Y học cổ truyền
Trong y học cổ truyền, gừng được xếp vào nhóm thuốc phát tán phong hàn, ôn trung chỉ nôn, hồi dương cứu nghịch.
Sinh khương (gừng tươi)
Tính ấm, vị cay, vào các kinh Phế – Tỳ – Vị.
Công dụng chính:
- Phát tán phong hàn: dùng trong cảm lạnh, sợ lạnh, không ra mồ hôi, nghẹt mũi, ho đờm loãng.
- Ôn trung, chỉ nôn: giảm buồn nôn, nấc, nôn do lạnh vị, thai nghén nôn nhiều.
- Giảm ho, hóa đàm: nhất là trường hợp đờm lạnh, ho kèm cảm mạo.
- Giải độc: hỗ trợ giải độc bán hạ, nam tinh, cá độc, hoặc các trường hợp ngộ thực nhẹ.
Can khương (gừng khô)
Tính nóng hơn sinh khương, quy kinh Tỳ, Vị, Tâm, Thận.
Công dụng chính:
- Ôn trung tán hàn: trị đau bụng do hàn, lạnh bụng, tiêu chảy, đại tiện lỏng kéo dài.
- Hồi dương cứu nghịch: dùng trong trạng thái chân tay lạnh, mạch vi, suy giảm dương khí.
- Ôn phế chỉ khái: ho lâu ngày, đờm trắng loãng, khí hàn phạm phế.
Cầm tiêu chảy do hàn lạnh, đặc biệt trong các bài thuốc cổ phương như Lý Trung thang, Tứ Nghịch thang.
Khương bào/ khương bì (vỏ gừng)
Tính ấm nhẹ, vị cay thơm.
Công dụng: lợi thủy – tiêu phù, thường dùng khi cần tác động mềm hơn so với sinh khương, đặc biệt trong phù nề nhẹ hoặc thai phụ phù chân.
Nhìn chung, gừng là vị thuốc chủ lực để trừ hàn, hỗ trợ tiêu hóa, giảm buồn nôn, giảm ho đờm lạnh, phục hồi dương khí suy. Các phân dạng (tươi, khô, vỏ) có sự khác biệt dược tính rõ ràng, được sử dụng linh hoạt trong lâm sàng tùy theo bệnh cảnh.
Y học hiện đại
Thân rễ gừng chứa hơn 200 hợp chất, trong đó quan trọng nhất thuộc hai nhóm: tinh dầu và phenylalkanoid:
- Tinh dầu (1–3%), chủ yếu gồm: Zingiberene (20–30% tinh dầu), β-sesquiphellandrene, β-bisabolene, camphene, limonene, geranial, neral Tinh dầu quyết định mùi thơm đặc trưng và là nền tảng cho các tác dụng kháng viêm – kháng khuẩn.
- Các hợp chất cay nhóm phenylalkanoid: Đây là nhóm quan trọng nhất cho dược tính của gừng: Gingerols (đặc biệt là [6]-gingerol) có nhiều trong gừng tươi, shogaols (đặc biệt [6]-shogaol) hình thành khi sấy/ chế biến, hoạt tính mạnh hơn gingerol, paradols, zingerone. Nhóm này tham gia mạnh vào tác dụng chống viêm, chống oxy hóa, chống nôn và bảo vệ niêm mạc tiêu hóa.
- Các hợp chất khác: polysaccharides hòa tan, axit hữu cơ, vitamin B1, B2, B6, C, khoáng chất: Ca, Mg, K, Mn, một số flavonoid và hợp chất phenolic.
Tác dụng dược lý theo nghiên cứu hiện đại:
- Chống viêm, giảm đau: Gingerol và shogaol ức chế mạnh các enzym COX-2, LOX, và giảm sản xuất prostaglandin, TNF-α, IL-6. Hiệu quả trong viêm xương khớp, đau cơ, viêm đường hô hấp.
- Chống oxy hóa mạnh: Gingerol và zingerone trung hòa gốc tự do, tăng hoạt tính SOD, catalase. Bảo vệ tế bào, giảm stress oxy hóa, hỗ trợ phòng bệnh mạn tính.
- Chống buồn nôn, chống nôn: Nhiều thử nghiệm lâm sàng chứng minh gừng hiệu quả trong buồn nôn thai kỳ, say tàu xe, hóa trị gây nôn mức độ nhẹ đến trung bình, nôn sau phẫu thuật
- Tác dụng tiêu hóa: Gừng làm tăng tiết dịch vị ở mức vừa phải, giảm đầy hơi, chống co thắt cơ trơn ruột, thúc đẩy tiêu hóa lipid. Hữu ích trong khó tiêu, đầy bụng, lạnh bụng, hội chứng ruột kích thích.
- Kháng khuẩn, kháng virus: Tinh dầu gừng kháng lại nhiều chủng: E. coli, Staphylococcus aureus, Salmonella, nấm Candida, và virus hô hấp thông thường. Hỗ trợ giảm mức độ nhiễm khuẩn nhẹ đường hô hấp, tiêu hóa.
- Điều hòa chuyển hóa: Giảm đường huyết lúc đói, tăng nhạy insulin, giảm triglycerid và LDL-cholesterol. Hỗ trợ kiểm soát đái tháo đường type 2 và rối loạn lipid máu.
- Bảo vệ tim mạch: Hoạt tính chống viêm, chống oxy hóa giúp giảm xơ vữa, cải thiện tuần hoàn, giảm kết tập tiểu cầu.
- Hoạt tính chống ung thư: Trong các nghiên cứu in vitro và in vivo, gingerol và shogaol: Ức chế tăng sinh tế bào ung thư, gây apoptosis, hạn chế di căn.
Ứng dụng và một số bài thuốc dân gian
Gừng được sử dụng theo các dạng khác nhau như sinh khương, can khương, khương bào, mỗi dạng có tác dụng khác nhau và được dùng linh hoạt tùy bệnh cảnh:
Sinh khương (gừng tươi)
Phát tán phong hàn: dùng khi mới cảm lạnh, sợ lạnh, nghẹt mũi, ho đờm loãng.
Ôn vị chỉ ẩu: giảm buồn nôn, nấc, say tàu xe, thai nghén nôn nhiều.
Hóa đàm: giảm ho đờm lạnh.
Giải độc: hỗ trợ khi ngộ thực nhẹ, hoặc khi dùng nhầm dược liệu có độc tính thấp (theo ghi chép cổ phương).
Can khương (gừng khô)
Ôn trung tán hàn: chữa đau bụng do lạnh, tiêu chảy kéo dài, tỳ vị hư hàn.
Hồi dương cứu nghịch: chân tay lạnh, mạch vi, suy giảm dương khí.
Ôn phế chỉ khái: ho lâu ngày, đờm trắng loãng, phế hàn.
Khương bào (vỏ gừng)
Lợi thủy tiêu phù: dùng trong phù nhẹ, tiểu tiện khó, phù thai kỳ mức độ nhẹ (theo Đông y cổ phương).
Tác dụng ôn hòa, ít gây nóng trong hơn so với sinh khương.
Một số bài thuốc dân gian
- Giải cảm lạnh nhẹ (Sinh khương thang): Sinh khương 6–8 g, Hành trắng 3–5 nhánh, Nước 200 ml. Cách dùng: sắc uống khi còn ấm, ra mồ hôi nhẹ. Gừng và hành đều tán phong hàn, thông dương khí ở biểu.
- Chữa buồn nôn, đầy bụng lạnh: Sinh khương 4–6 g, Trần bì 4 g, Sa nhân 3 g. Cách dùng: sắc uống 1–2 lần/ngày. Công dụng: ôn vị, giáng nghịch khí, giảm nôn và đầy bụng.
- Tiêu chảy do hàn lạnh: Can khương 4 g, Phục linh 6 g, Cam thảo 2–3 g. Cách dùng: sắc uống. Công dụng: ôn trung, kiện tỳ, cố sáp, giảm tiêu chảy.
- Giảm ho đờm lạnh: Sinh khương 4 g, Tía tô 6 g, La hán diệp hoặc cát cánh (2–4 g). Cách dùng: sắc uống buổi tối. Công dụng: tán hàn, hóa đàm, tuyên thông phế khí.
- Đầy hơi, chậm tiêu sau bữa ăn: Gừng nướng + muối trắng. Gừng già nướng đến khi cháy xém vỏ, cạo sạch, thái lát mỏng, chấm chút muối ăn trực tiếp. Tác dụng: ôn vị, tán hàn, giảm ứ khí, kích thích tiêu hóa.
- Đau bụng lạnh, đau bụng khi trời lạnh: Sinh khương 6 g, Quế chi 4 g, Đường đỏ vừa đủ. Cách dùng: sắc uống khi còn nóng.
- Trị nấc cụt, nôn nhiều: Gừng tươi giã nhỏ + nước ấm. Lấy 5 g gừng tươi giã nát, hòa với 30 ml nước ấm, lọc uống. Tác dụng: chỉ ẩu, giáng nghịch khí, giảm nấc.
- Phù nề nhẹ: Khương bào 6 g, Rễ cỏ tranh 10 g, Mã đề 8 g. Cách dùng: sắc uống. Tác dụng: lợi thủy, tiêu phù, thanh nhiệt nhẹ.
Lưu ý
Không dùng liều cao kéo dài, nhất là người âm hư, nóng trong, viêm loét dạ dày tiến triển.
Phụ nữ mang thai có thể dùng gừng giảm nghén với liều thấp (dưới 1 g gingerol/ngày theo khuyến cáo lâm sàng quốc tế).
Can khương tính nóng mạnh, không dùng khi có sốt cao hoặc âm hư hỏa vượng.
Tương tác nhẹ với thuốc chống đông, cần hỏi ý kiến bác sĩ khi dùng.














.png)