Theo y dược cổ truyền, qua lầu bì có tác dụng thanh phế hóa đàm, chủ trị chứng ho do phế nhiệt. Qua lầu nhân có tác dụng nhuận phế hóa đàm, chủ trị các chứng táo bón do trường táo, nhũ ung, trường ung.
Cây qua lâu còn có tên gọi khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát. Là một loại cây dây leo có rễ củ thuôn dài, cắt khúc, lá mọc so le, vói hình tim, có khía răng. Hoa đơn tính, có màu trắng, đầu cánh có những sợi dài, hoa đực mọc thành cụm dài, hoa cái mọc ở kẽ lá. Quả có dạng hình cầu, màu lục, có dọc trắng, khi chín có màu đỏ. Rễ của cây qua lâu còn được gọi là qua lâu căn, tên thuốc trong y học cổ truyền là thiên hoa phấn.
Một số bài thuốc thường được sử dụng trong y dược cổ truyền từ rễ của cây qua lâu.
Chữa sốt nóng, da vàng, miệng khoo khát.
- Rễ qua lâu 8g, rễ cây é lớn đầu 8g hoặc hạt đậu đen 8g. Sắc uống trong ngày.
Trị mụn nhọt lâu ngày.
- Rễ qua lâu 8g, ý dĩ 10g, bạch chỉ 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Hỗ trợ điều trị đái tháo đường.
- Rễ qua lâu 8g, thục địa 20g, hoài sơn 20g, đơn bì 12g, kỷ tử 12g, thạch hộc 12g, sơn thù 8g, sa nhân 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trị chứng tắc tia sữa.
- Rễ qua lâu 8g, bạch thược 12g, sài hô 8g, đương quy 8g, xuyên sơn giáp 8g, thanh bì 6g, cát cánh 6g, thông thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trị sốt rét.
- Rễ qua lâu 8g, mẫu lệ 12g, sài hô 8g, quế chi 8g, hoàng cầm 9g, can khương 6g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trị chứng thấp khớp.
- Rễ qua lâu 12g, thổ phục linh 12g, cốt toái bổ 12g, thạch cao 12g, kê huyết đằng 12g, đơn sâm 12g, sinh địa 12g, rau má 12g, uy linh tiên 12g, hy thiêm 12g, khương hoạt 12g, độc hoạt 12g, bạch chỉ 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.