Theo đông y, củ điền thất có vị đắng, hơi the, tính bình có tác dụng bổ huyết, làm tan máu bầm, điều hòa kinh nguyệt, giúp tiêu hóa nhuận tràng
Củ điền thất còn có tên gọi là vùi đầu thảo, thủy điền thất. Củ điền thất là loại cây thuộc thảo, mọc thành từng bụi. Lá mọc từ thân rễ, cụm hoa hình tán, hoa trên một cán mập dẹt cong dần xuống, mầu tím. Quả nang mở không đều ở đỉnh, hạt nhỏ, hình thoi, mầu nâu. Cây mọc hoang ở rừng núi, thường ưa mọc ở những nơi ẩm thấp, ven bờ suối. Bộ phận thường dùng để làm thuốc là thân rễ có mầu vàng nâu mùi thơm hăng như nghệ. Củ được thu hái vào mùa hè, cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch thái mỏng, phơi hoặc sấy khô.
Theo y học cổ truyền, củ điền thất có vị đắng, hơi the có tác dụng bổ huyết, làm tan máu bầm. Dung để điều hòa kinh nguyệt, giúp tiêu hóa, nhuận tràng, lợi mật...
Một số bài thuốc thường dùng từ củ điền thất:
Chữa táo bón
Củ điền thất tán bột ngày từ 6 - 10gam chiêu nước ấm uống trước bữa ăn 15 - 30 phút. Kiêng dùng đồ cay nóng, nếu mắc bệnh dạ dày kiêng giấm, rượu. Dùng trong vòng 5- 10 ngày
Chữa kinh nguyệt không đều:
Củ điền thất tán bột uống mỗi ngày 10gam, có thể thêm chút mật ong, hoặc uống với nước ấm nóng. Uống sau kỳ kinh 10 ngày. Mỗi liệu trình 10 ngày, dùng 3 liệu trình một đợt điều trị.
Chữa sưng tấy do ngã, va đập:
Củ điền thất (tươi) rửa sạch, giã nhỏ thêm ít nước, chắt lấy nước cốt uống, lấy bã đắp vào chỗ đau sau đó băng lại. Ngày thay băng 1 lần.
Chữa tăng huyết áp ở phụ nữ tiền mãn kinh:
Củ điền thất 20gam, hương phụ tử chế 18gam. Tất cả rửa sạch, đổ 400ml, sắc nhỏ lửa còn 150ml, chia làm 3 lần uống trong ngày. Uống từ 3 - 5 ngày.
Lương y Trần Bá