Đậu biếc là loài hoa quen thuộc với chị em phụ nữ, với những ứng dụng như làm trà, làm màu thực phẩm, nhuộm vải… đậu biếc trở nên “hot hit” và được tìm mua rất nhiều. Được coi là một loại dược liệu, đậu biếc có những tác dụng tốt trong y học, nhưng cần dùng đúng cách để có hiệu quả và không gặp các tác dụng không mong muốn.

NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG DỤNG CỦA ĐẬU BIẾC

Đậu biếc là loài hoa quen thuộc với chị em phụ nữ, với những ứng dụng như làm trà, làm màu thực phẩm, nhuộm vải… đậu biếc trở nên “hot hit” và được tìm mua rất nhiều. Được coi là một loại dược liệu, đậu biếc có những tác dụng tốt trong y học, nhưng cần dùng đúng cách để có hiệu quả và không gặp các tác dụng không mong muốn.

Đậu biếc Clitoria ternatea L. 

 

Đậu biếc Clitoria ternatea L. thuộc họ Đậu (Fabaceae). Cây đậu biếc không còn xa lạ gì với chúng ta, vậy nên những thông tin dưới đây sẽ tập trung vào tác dụng, cách dùng an toàn của hoa đậu biếc. Căn cứ vào những thông tin khoa học về loài Clitoria ternatea L. được tìm kiếm trên Google Scholar, PubMed, NCBI, ScienceDirect, SciFinder cũng như trong những cuốn sách về dược liệu đã được xuất bản, hoa đậu biếc có những tác dụng sau.

Đậu biếc chứa tannin, phlobatannin, carbohydrate, saponin, triterpenoids, phenol, flavanoids, flavonol glycoside, protein, alkaloid, antharaquinone, anthocyanins, glycoside tim, Stigmast4-ene-3,6-dione, tinh dầu và steroid. Đậu biếc có các tác dụng dược lý bao gồm: chống oxy hóa, giảm lipid máu, chống ung thư, chống viêm, giảm đau, hạ sốt, trị đái tháo đường, tác động đến thần kinh trung ương, kháng khuẩn, diệt ký sinh trùng, diệt côn trùng…

1.    Kháng khuẩn, nấm, ký sinh trùng và côn trùng

Các chiết xuất khác nhau của lá, thân, hoa, hạt Đậu biếc cho thấy tác dụng ức chế chống lại Pseudomonas aeruginosa, Escherichiacoli, Klebsiella pneumonia, Bacillus subtilis, Aeromonas formicans, Aeromonas hydrophila, Streptococcus agalactiae [23] và hoạt động diệt nấm phổ rộng (nấm gây bệnh cho người và cây trồng).

Chiết xuất etanolic của đậu biếc (100mg/ml) gây tê liệt trong vòng 15-20 phút và dẫn đến tử vong trong vòng 28-30 phút đối với giun đất Pheritima posthuma [31].

Hoạt động tẩy giun sán của chiết xuất ethanolic từ hoa, lá, thân và rễ của đậu biếc cũng được đánh giá trên giun đất trưởng thành Pheretima posthuma, kết quả cho thấy rễ mất ít thời gian hơn để làm tê liệt và chết những con giun đất. Rễ đậu biếc được chiết xuất bằng ete dầu mỏ, cloroform, etyl axetat và methanol, các chiết xuất này đã được sàng lọc để tìm hoạt tính tẩy giun sán. Kết quả cho thấy chiết xuất metanol của rễ đậu biếc là mạnh hơn cả [16].

Nghiên cứu so sánh hoạt động tẩy giun sán của chiết xuất nước và ethanol lá đậu biếc được thực hiện chống lại giun đất Eisenia foetida cho thấy ở nồng độ 100mg/ml cả chiết xuất etanolic và nước có tác dụng tẩy giun sán rất đáng kể khi so sánh với thuốc Levamisole (0,55 mg/ml) [28].

Hoạt động diệt ấu trùng của muỗi của đậu biếc đã được nghiên cứu đối với ba vật trung gian truyền bệnh chính của muỗi Aedes aegypti, Culex quinquefasciatusAnopheles stephensi. Trong số các chiết xuất metanol của lá, rễ, hoa và hạt đậu biếc, chiết xuất từ hạt có hiệu quả chống lại ấu trùng của cả 3 loại muỗi [13].

2.    Hạ sốt, giảm đau, chống viêm

Chiết xuất etanol của rễ đậu biếc (ECTR) ở liều 100, 125 và 150 mg/kg được đánh giá hoạt động kháng histamin bằng cách sử dụng clonidine và haloperidol gây catalepsy (chứng bắt thế) ở chuột. Kết quả cho thấy chlorpheniramine maleate (CPM) và ECTR ức chế đáng kể chứng catalepsy do clonidine gây ra nhưng không ức chế được hiện tượng catalepsy do haloperidol [34].
Chiết xuất methanol của rễ đậu biếc (MECTR) có tác dụng hạ sốt tương đương với tác dụng của paracetamol [17].

Chiết xuất methanol của rễ đậu biếc (MECTR) liều 200-400 mg/kg bằng đường uống làm ức chế sự phù chân do carrageenan và tăng tính thấm thành mạch do acid acetic gây ra ở chuột [1].

Hoạt động giảm đau và chống viêm của chiết xuất hoa, lá đậu biếc được đánh giá trên nhiều nghiên cứu in vivo.

3.    Chống ung thư

Tác dụng gây độc tế bào in vitro của ete dầu hỏa và chiết xuất etanolic của hoa đậu biếc (10, 50, 100, 200, 500 μg/ml) được nghiên cứu. Cả hai chiết xuất đều thể hiện đáng kể hoạt tính gây độc tế bào ung thư phụ thuộc liều lượng [24].

Độc tính tế bào của các chiết xuất nước và metanol của hoa đậu biếc được đánh giá trên 6 loại tế bào bình thường và dòng tế bào ung thư bao gồm dòng tế bào ung thư vú phụ thuộc vào hormone (MCF-7), dòng tế bào ung thư vú không phụ thuộc hormone (MDA-MB-231), dòng tế bào ung thư buồng trứng ở người (Caov-3), dòng tế bào ung thư cổ tử cung ở người (Hela), dòng tế bào ung thư gan ở người (HepG2) và nguyên bào sợi bao quy đầu ở người (Hs27). Kết quả cho thấy chiết xuất nước hoa đậu biếc từ có tác dụng đáng kể chống lại MCF-7 với giá trị IC50 là 175,35 μg/ml [10].

Hoạt tính chống ung thư của đậu biếc đã được đánh giá trên chuột mang bệnh ung thư hạch Dalton (DLA). Sau 24 giờ cấy ghép khối u, chiết xuất methanol đậu biếc (MECT) được sử dụng ở liều 100 và 200mg/kg thể trọng trong 14 ngày liên tục. Kết quả cho thấy điều trị bằng MECT làm giảm thể tích khối u, thể tích hồng cầu PCV và số lượng tế bào sống; nó cũng làm tăng số lượng tế bào không còn sống và thời gian sống sót trung bình, do đó tăng tuổi thọ của chuột mang bệnh. Các chỉ số huyết học về mức bình thường nhiều hơn hoặc ít hơn trong nhóm được điều trị [9].

4.    Chống oxy hóa

Các chiết xuất dung môi khác nhau của lá, rễ, hạt đậu biếc được đánh giá về khả năng thu dọn gốc tự do in vitro của bằng thử nghiệm nhặt rác gốc 1,1-diphenyl-2-picryl-hydrazyl (DPPH), thử nghiệm nhặt gốc hydroxyl. Tất cả các chiết xuất thể hiện mạnh mẽ trong hoạt động dọn gốc tự do in vitro tăng lên theo nồng độ. Dịch chiết metanol có tác dụng mạnh nhất, tiếp theo là chiết xuất cloroform và ete dầu mỏ [14] [19] [20]. 

Chiết xuất cánh hoa đậu biếc (CTE) có tác dụng chống oxy hóa và khả năng bảo vệ hồng cầu.CTE cho thấy hoạt tính chống oxy hóa được đo bằng phương pháp khả năng hấp thụ gốc oxy (ORAC) và thử nghiệm nhặt rác gốc 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH). CTE (400 µg/ml) bảo vệ hồng cầu chống lại sự tan máu do AAPH ở 4 giờ ủ bệnh [21].

5.    Chống tiểu đường

Tác dụng hạ đường huyết của các chiết xuất metanol, nước, ete dầu hỏa và chiết xuất cloroform của lá đậu biếc đã được đánh giá trên chuột tiểu đường gây ra bởi Streptozotocin. Các chiết xuất (200 và 400 mg/kg) làm giảm đáng kể mức đường huyết trên chuột bị tiểu đường. Ở liều 400mg/kg có tác dụng hạ đường huyết đáng kể, liều 200 mg/kg cũng làm giảm mức đường huyết nhưng bằng liều 400mg/kg. Kết quả về tác dụng nhanh của dịch chiết metanol, cho thấy liều 200 và 400 mg/kgcó tác dụng tương tự, nhưng ở giai đoạn đầu; sau 30 phút, liều 200mg/kg cho thấy lượng đường huyết giảm rõ rệt. Khi sử dụng lâu dài dịch chiết với liều 200 mg/kg cho kết quả kiểm soát đường huyết tốt hơn.

Trên mô hình thực nghiệm chuột bị tiểu đường gây ra bởi ra alloxan cho thấy tác dụng hạ đường huyết đáng kể của chiết xuất methanol lá đậu biếc (200 và 400 mg/kg) [2]. 

Tác dụng hạ đường huyết của chiết xuất nước của lá và hoa đậu biếc (50-500mg/kg) được nghiên cứu tên bệnh tiểu đường do alloxan gây ra ở chuột. Kết quả cho thấy chiết xuất nước của lá và hoa đậu biếc (400 mg/kg) làm giảm đáng kể đường huyết, HbA1c và các hoạt động của enzym gluconeogenic, glucose-6- phosphatase; làm tăng insulin huyết thanh, glycogen gan và cơ, hoạt động của enzym đường phân, glucokinase [6] [5].

Tác dụng chống bệnh tiểu đường của đậu biếc còn được nhiều các nghiên cứu khác đánh giá và đều cho kết quả tốt trong việc kiểm soát đường huyết và ngăn ngừa biến chứng bệnh tiểu đường.

6.    Tác dụng lên thần kinh trung ương

Hạt và lá đậu biếc đã được sử dụng rộng rãi để làm thuốc bổ thần kinh và được cho là giúp tăng cường trí nhớ và trí tuệ. Hoạt động của đậu biếc đối với bệnh Alzheimer đã được nghiên cứu. Kết quả cho thấy chiết xuất nước đậu biếc có lợi trong bệnh Alzheimer thông qua nhiều cơ chế [30].

Chiết xuất đậu biếc có tác dụng tăng cường trí nhớ và giải lo âu tối đa  ở liều 200 và 100 mg/kg, có hoạt tính chống trầm cảm đáng kể và tác dụng ức chế thần kinh trung ương ở liều cao hơn [12].

Các bộ phận của đậu biếc đặc biệt là rễ cây được nhiều nghiên cứu in vivo đánh giá tác dụng cải thiện trí nhớ, tăng khả năng học tập, bảo vệ thần kinh…

Trên thế giới có một số loại thuốc bảo vệ thần kinh có thành phần đậu biếc, những thuốc này cũng đã được nghiên cứu đánh giá tác dụng tăng trí nhớ, chống trầm cảm… 

7.    Chống loét dạ dày

Chiết xuất nước và etanol toàn cây đậu biếc với liều 200và 400 mg/kg đã được sử dụng trên chuột thực nghiệm bị loét dạ dày để đánh các thông số khác nhau như lượng tiết axit dạ dày, pH, chỉ số vết loét và chống oxy hóa. Các thông số được xác định và so sánh giữa các chiết xuất, chất chuẩn và nhóm đối chứng. Trong số các liều khác nhau của chiết xuất etanol liều cao cho thấy hoạt tính chống loét đáng kể trong mô hình thắt môn vị và sử dụng indomethacin gây loét trên chuột [27].

8.    Hạ lipid máu

Tác dụng chống tăng lipid máu của đậu biếc đã được nghiên cứu trong thực nghiệm gây ra chứng tăng lipid máu ở chuột cống bằng poloxamer 407 và chế độ ăn. Chiết xuất hydroalcoholic của rễ và hạt đậu biếc làm giảm đáng kể cholesterol toàn phần, triglycerid, LDL-cho và tăng HDL-cho. Chỉ số xơ vữa và tỷ lệ HDL/LDL cũng được bình thường hóa sau khi điều trị ở chuột tăng lipid máu do chế độ ăn uống. Tác dụng của đậu biếc trong nghiên cứu này được so sánh với atorvastatin và gemfibrozil [38]. 

9.    Làm lành vết thương

Chiết xuất từ hạt và rễ đậu biếc có tác dụng cải thiện đáng kể quá trình chữa lành vết thương trong các mô hình làm cắt rạch da trên chuột. Tác dụng này tương đương với thuốc mỡ Cotrimoxazole. Đậu biếc ảnh hưởng đến cả ba giai đoạn: giai đoạn viêm, tăng sinh và tái tạo của quá trình chữa lành vết thương [33].

10.    Chống dị ứng

Chiết xuất etanol của rễ đậu biếc (ECTR) có hoạt tính chống hen phế quản khi sử dụng sữa gây ra tăng bạch cầu và tăng bạch cầu ưa eosin ở chuột, albumin trứng gây ra sự suy giảm tế bào mast ở chuột và phản vệ thụ động qua da ở chuột với liều (100-150 mg/kg). ECTR liều 400 mg/kg có hoạt tính chống co thắt phế quản trên chuột Wister bị khí dung histamin, nó không chỉ có hoạt động giãn phế quản mà còn làm giảm sự tăng tiết dịch khí phế quản bằng cách giảm sự xâm nhập của các tế bào viêm trong đường thở và ức chế giải phóng histamine [36] [4].

11.    Điều hòa miễn dịch

Chiết xuất rễ và hạt đậu biếc có tác dụng ức chế miễn dịch đáng kể thể hiện rõ từ việc giảm đáng kể hiệu giá kháng thể chính và phụ ở mô hình chuột nhạy cảm với SRBCs, độ dày chân trong phản ứng DTH và và sự kết dính bạch cầu trung tính và thực bào trong ống nghiệm in vitro. Tác dụng điều hòa miễn dịch của đậu biếc trên dịch thể, tế bào đáp ứng miễn dịch qua trung gian và không đặc hiệu có thể do giảm nhạy cảm tế bào miễn dịch, biểu hiện tế bào miễn dịch và thực bào. Các nhà khoa học kết luận rằng các đặc tính chống viêm và chống oxy hóa của đậu biếc có thể đóng vai trò quan trọng trong hoạt động điều hòa miễn dịch [32].

12.    Tác dụng lên đường tiết niệu

Chiết xuất rễ đậu biếc cho thấy không có tác dụng lợi tiểu hoặc đào thải natri đáng kể trên chó khi dùng đường uống với liều lượng không độc. Liều tiêm tĩnh mạch của chiết xuất đã dẫn đến sự tăng bài tiết natri và kali trong nước tiểu, nhưng đồng thời nó cũng có dấu hiệu tổn thương thận [22].

Chiết xuất đậu biếc có tác dụng ức chế sự hình thành tinh thể canxi oxalat (một thành phần trong hầu hết các loại sỏi tiết niệu) in vitro. Hiệu lực ức chế hình thành tinh thể canxi oxalat của chiết xuất cồn lá đậu biếc được phát hiện cao hơn so với với thuốc điều trị sỏi thận Cystone [26].

13.    Tác dụng bảo vệ

Bảo vệ gan: Chất chiết xuất từ ete dầu mỏ, cloroform và metanol từ rễ đậu biếc đã được nghiên cứu về tiềm năng bảo vệ gan trên thí nghiệm chống lại carbon tetraclorua (CCl4) gây ra độc tính trên gan ở chuột cống. Hoạt động bảo vệ gan được đánh giá bằng cách sử dụng các thông số sinh hóa khác nhau như GOT, GPT, phosphatase kiềm trong huyết thanh, bilirubin toàn phần và mô bệnh học của gan. Việc điều trị bằng rễ đậu biếc trên chuột bị tổn thương gan cho thấy sự cải thiện các chỉ số sinh hóa trên cũng như hình ảnh của mô [18].

Bảo vệ thận: Các hoạt động bảo vệ thận và chống oxy hóa của chiết xuất etanol của lá và hoa đậu biếc đã được đánh giá trêm mô hình gây độc bằng acetaminophen ở chuột. Các nghiên cứu sinh hóa cho thấy rằng có mộttăng nồng độ urê và creatinin huyết thanh cùng với sự gia tăng trọng lượng cơ thể và giảmnồng độ axit uric trong nhóm gây ra acetaminophen. Nghiên cứu cho thấy đậu biếc có tác dụng chống lại acetaminophen gây ra tổn thương hoại tử mô thận [29].

Bảo vệ tinh hoàn: Chiết xuất hoa đậu biếc với hoạt tính chống oxy hóa đã được nghiên cứu ở chuột đực thường và chuột đực bị tổn thương tinh hoàn bởi Ketoconazole (KET). với các thông số sinh sản bao gồm nồng độ tinh trùng, mức testosterone huyết thanh, mô bệnh học của tinh hoàn, và mức độ phosphoryl hóa tyrosine tinh hoàn. Hoạt tính chống oxy hóa của chất chiết xuất từ hoa đậu biếc được xác định bằng cách sử dụng 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH) và khử ion sắt (FRAP). Kết quả nghiên cứu cho thấy chiết xuất từ hoa đậu biếc có tác dụng chống oxy hóa. Ở liều 100 mg/kg, chiết xuất không có tác dụng độc hại đối với hệ thống sinh sản của chuột đực bình thường. Trong lô chuột đực bị tổn thương tinh hoàn sử dụng chiết xuất từ hoa đậu biếc, chiết xuất này đã bảo vệ khỏi tổn thương tinh hoàn ở chuột do KET gây ra [8].

14.    Tính an toàn

LD50 của chiết xuất ethanol từ rễ đậu biếc là hơn 1.300 mg/kg ở chuột [11]. Nghiên cứu đánh giá độc tính cấp của rễ đậu biếc qua đường miệng nghiên cứu cho thấy không có tỷ lệ tử vong lên đến 3000mg/kg ở chuột [7]. Sau liều duy nhất 1000 mg/kg ở chuột, không có tử vong hoặc bất kỳ rối loạn nào khác cho đến 72 giờ [35]. Chiết xuất đậu biếc an toàn ngay cả ở liều 2000 mg/kg ở chuột [15]. Không có tử vong được quan sát ở liều lên đến 2g/kg chiết xuất etanol của lá và hoa đậu biếc ở chuột. Trong quá trình quan sát, chuột có biểu hiện giảm vận động nhưng không có biểu hiện co giật hoặc mất phản xạ quằn quại. Kết quả này chỉ ra rằng đậu biếc có độc tính thấp [37]. Tác dụng gây đột biến của chiết xuất nước đậu biếc được đánh giá bằng 3 phương pháp thử nghiệm trên Bacillus subtilis rec, Salmonella typhimurium Ames và xét nghiệm vi nhân (micronucleus test). Chiết xuất đậu biếc đã cho kết quả âm tính, không có hoạt động đột biến ở cả tế bào vi khuẩn và động vật có vú [25].

Các bộ phận đậu biếc đều có tác dụng tốt cho sức khỏe, được dùng để hỗ trợ điều trị bệnh, rất nhiều công trình khoa học nói lên điều đó mà trên đây mới chỉ là một vài minh chứng. Để có hiệu quả tốt, mọi người nên tham khảo ý kiến chuyên gia để được hướng dẫn sử dụng, không nên lạm dụng quá mức và lựa chọn nơi cung cấp uy tín, đảm bảo chất lượng dược liệu.

Bác sĩ: Nguyễn Thùy Ngân

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Parimaladevi B, Boominathan R and Mandal SC. Anti-inflammatory, analgesic and antipyretic properties of Clitoria ternatea root. Fitoterapia 2003; 74(4): 345-349

2. Abhishek S, Pankaj M and Vikas S. Hypoglycemic effects of Clitoria ternatea leaves (Linn) Extract. Journal of Pharmacology and Toxicological Studies 2013; 1(1): 4-7

3. Abhishek S, Vikas S, Minu K and Pankaj M. Comparative hypoglycemic effects of different extract of Clitoria ternatea leaves on rats. IOSR Journal of Pharmacy and Biological Sciences 2015; 10(2-III): 60-65

4. Chauhan N, Rajvaidhya S and Dubey BK. Antihistaminic effect of roots of Clitorea ternarea Linn. IJPSR 2012; 3(4): 1076-1079

5. Daisy P and Rajathi M. Hypoglycemic effects of Clitoria ternatea Linn. Tropical Journal of Pharmaceutical Research 2009; 8 (5): 393-398

6. Daisy P, Santosh S and Rajathi M. Antihyperglycemic and antihyperlipidemic effects of Clitoria ternatea Linn. in alloxan-induced diabetic rats. African Journal of Microbiology Research 2009; 3 (5): 287-291.

7. Deka M and Chandra KJ. Preliminary phytochemical analysis and acute oral toxicity study of Clitoria ternatea Linn roots in albino mice. International Research Journal of Pharmacy 2011; 2(12): 139- 140

8. Iamsaard S, Burawat J, Kanla P et al. Antioxidant activity and protective effect of Clitoria ternatea flower extract on testicular damage induced by ketoconazole in rats. J Zhejiang Univ Sci B 2014;15(6):548-555

9. Jacob L and Latha MS. Anticancer activity of Clitoria ternatea Linn. against Dalton’s lymphoma. International Journal of Pharmacognosy and Phytochemical Research 2012; 4(4); 207-212

10. Jayakar B and Suresh B. Hepatoprotective potential of Clitoria ternatea leaf extract against paracetamol induced damage in mice. Molecules 2011; 16: 10134-10145

11. Kelemu S, Cardona C and Segura G. Antimicrobial and insecticidal protein isolated from seeds of Clitoria ternatea, a tropical forage legume. Plant Physiol Biochem 2004;42(11):867-873

12. Malik J, Karan M and Vasisht K. Nootropic, anxiolytic and CNS-depressant studies on different plant sources of shankhpushpi. Pharm Biol 2011;49(12):1234-1242

13. Mathew N, Anitha MG, Bala TS, Sivakumar SM, Narmadha R and Kalyanasundaram M. Larvicidal activity of Saraca indica, Nyctanthes arbortristis, and Clitoria ternatea extracts against three mosquito vector species. Parasitol Res 2009; 104(5):1017-1025

14. Mukhopadhyay R, Bhattacharya S and Biswas M. In vitro free radical scavenging activity of Clitoria ternatea leaf extracts. Journal of Advanced Pharmacy Education & Research 2012; 2(4):206-209

15. Nawaz AH, Hussain M, Karim M, et al. An ethnobotanical survey of Rajshahi district in Rajshahi division, Bangladesh, American-Eurasian Journal of Sustainable Agriculture 2009; 3(2): 143-150

16. Nirmal SA, Bhalke RD, Jadhav RS and Tambe VD. Anthelmintic activity of Clitoria ternatea. Pharmacologyonline 2008; 1: 114-119

17. Parimaladevi B, Boominathan R and Mandal SC. Evaluation of antipyretic potential of Clitoria ternatea L. extract in rats. Phytomedicine 2004;11(4):323-326

18. Patil AP and Patil VR. Comparative evaluation of hepatoprotective potential of roots of blue and white flowered varieties of Clitoria ternatea Linn. Der Pharmacia Sinica 2011; 2(5):128-137

19. Patil AP and Patil VR. Comparative evaluation of in vitro antioxidant activity of root of blue and white flowered varieties of Clitoria ternatea Linn. International Journal of Pharmacology 2011; 7(4):485-491

20. Patil AP and Patil VR. Evaluation of in vitro antioxidant activity of seeds of blue and white flowered varieties of Clitoria ternatea Linn. International Journal of Pharmacy and Pharmaceutical Sciences 2011; 3(4): 330-336

21. Phrueksanan W, Yibchok-anun S and Adisakwattana S. Protection of Clitoria ternatea flower petal extract against free radical-induced hemolysis and oxidative damage in canine erythrocytes. Res Vet Sci 2014;97(2):357-363

22. Piala JJ, Madissoo H and Rubin B. Diuretic activity of roots of Clitoria ternatea L. in dogs. Experientia 1962; 18(2): 89

23. Ponnusamy S, Gnanaraj W, Marimuthu J et al. The effect of leaves extracts of Clitoria ternatea Linn against the fish pathogens. Asian Pacific Journal of Tropical Medicine 2010;3(9): 723-726

24. PShyam kumar B and Ishwar Bhat K. In-vitro cytotoxic activity studies of Clitoria ternatea Linn flower extracts. International Journal of Pharmaceutical Sciences Review and Research 2011; 6(2): 120-121

25. Punjanon T and Arpornsuwan T. Studies of the mutagenic activities of synthetic hair dyes and natural hair dyes. Bull Health Sci & Tech 2009; 9(1-2): 33-39

26. Quazi S, Rathore P, Sharma A, Sharma P, Panchariya N and Sharma S. Inhibition of calcium oxalate crystallization in vitro by Clitoria ternatea root. Indian Journal of Drugs 2014; 2(1): 24-25

27. Rai SS, Banik A, Singh A and Singh M. Evaluation of anti-ulcer activity of aqueous and ethanolic extract of whole plant of Clitoria ternatea in albino Wistar rats. International Journal of Pharmaceutical Sciences and Drug Research 2015; 7(1): 33-39.

28. Salhan M, Kumar B, Tiwari P, Sharma P, Sandhar HK and Gautam M. Comparative anthelmintic activity of aqueous and ethanolic leaf extracts of Clitoria ternatea. Int J Drug Dev & Res 2011; 3 (1):68-69

29. Sarumathy K, Rajan MSD, Vijay T and Jayakanthi J. Evaluation of phytoconstituents, nephro-protective and antioxidant activities of Clitoria ternatea. Journal of Applied Pharmaceutical Science 2011; 1 (5): 164-172

30. Shahnas N and Akhila S. Phytochemical, in vitro and in silico evaluation on Clitoria ternatea for alzheimer’s disease. PharmaTuto 2014; 2(9): 135-149

31. Shekhawat N and Vijayvergia R. Anthelmintic activity of extracts of some medicinal plants. International Journal of Computational Science and Mathematics 2011;3(2):183-187

32. Solanki YB and Jain SM. Immunomodulatory activity of ayurvedic plant Aparajita (Clitoria ternatea L.) in male albino rats. Global Journal of Science Frontier Research 2010; 10(3): 2-8

33. Solanki YB and Jain SM. Wound healing activity of Clitoria ternatea L, in experimental animal model. Pharmacologia 2012; 3(6): 160-168

34. Taur DJ and Patil RY. Antihistaminic activity of Clitoria ternatea L roots. J Basic Clin Pharm 2011; 2(1): 41-44

35. Taur DJ and Patil RY. Antihistaminic activity of Clitoria ternatea L roots. J Basic Clin Pharm 2011; 2(1): 41-44

36. Taur DJ and Patil RY. Evaluation of antiasthmatic activity of Clitoria ternatea L roots. J Ethnopharmacol 2011;136(2):374-376

37. Verma PR, Itankar PR and Arora SK. Evaluation of antidiabetic antihyperlipidemic and pancreatic regeneration, potential of aerial parts of Clitoria ternatea. Rev Bras Farmacogn 2013; 23: 819-829

38. YB and Jain SM. Antihyperlipidemic activity of Clitoria ternatea and Vigna mungo in rats. Pharmaceutical Biology 2010; 48(8): 915-923