Theo y dược cổ truyền, nhân hồ đào có vị ngọt, tính ấm, nhuận phế có tác dụng điều trị hen suyễn, eo lưng đau, chân yếu, đại tiện táo. Vỏ cách vị đắng, tính bình, bổ thận, sáp tinh, trị thận hư di tinh. Vỏ ngoài quả và cành lá có vị đắng, tính bình có tác dụng điều trị sưng, ngứa sần, ngứa da trâu, ghe ngứa.
Cây hồ đào còn được gọi là cây óc chó, trong y dược cổ truyền gọi là vị thuốc hồ đào nhục. Cây thường được trồng ở biên giới Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng... Là loại cây sống lâu năm, cao tới 20m, lá có hình dáng kép lông chim, thường có 7 - 9 lá chét , mép nguyên không cuống. Hoa đơn tính cùng gốc hợp thành đuôi sóc. Quả được bọc trong lớp vỏ nạc, khi chín hạt sẽ rất cứng. Nhân, vỏ ngoài quả, lá cành, hạt thường được sử dụng làm thuốc trong y dược cổ truyền.
Theo y dược cổ truyền, nhân hồ đào có vị ngọt, tính ấm, nhuận phế có tác dụng điều trị hen suyễn, eo lưng đau, chân yếu, đại tiện táo. Vỏ cách vị đắng, tính bình, bổ thận, sáp tinh, trị thận hư di tinh. Vỏ ngoài quả và cành lá có vị đắng, tính bình có tác dụng điều trị sưng, ngứa sần, ngứa da trâu, ghe ngứa.
Cây hồ đào
Một số bài thuốc thường được sử dụng trong y dược cổ truyền từ cây hồ đào
Bổ huyết, mạnh gân cốt, nhuận cơ thể.
- Hồ đào nhục 160g, bột bố cốt chỉ 160g, đỗ trọng 160g, tỳ giải 160g. Tán nhỏ thành bột rồi làm thành hoàn bằng hạt ngô. Mỗi lần sử dụng 20 viên uống với nước đun sôi để nguội.
Chắc răng, đen tóc.
- Hồ đào nhân 160g, xuyên bối mẫu 160g. Tán nhỏ thành bột, dùng hàng ngày 10g với nước ấm.
Trị cảm phong hàn người nóng không ra mồ hôi.
- Hồ đào nhục 15g, trà búp hành 15g, gừng sống 15g. Những vị thuốc trên giã nát rồi sắc với 500ml nước. Uống rồi đắp chăn cho đến khi ra mồ hôi là khỏi.
Hỗ trợ điều trị ho do lạnh, ngủ không yên.
- Hồ đào nhục 40g, gừng sống 40g, hạnh nhân 40g. Nấu thành cao rồi thêm ít mật ong làm thành viên có kích thước như quả táo ta. Mỗi lần sử dụng 1 viên với nước gừng.
Lưu ý: Do cơ địa của mỗi người khác nhau nên các vị thuốc có thêm gia giảm cho phù hợp vì vậy khi áp dụng cần có sự tư vấn của thầy thuốc.